Chiều ngày 28/11/2022 đã diễn ra buổi trình bày Seminar của Giảng viên, Thạc sĩ Trần Hương Giang, thành viên nhóm Nghiên cứu mạnh Liên kết Kinh tế và Phát triển thị trường với chủ đề “Chuỗi giá trị cà phê tại Việt Nam: lợi ích và rào cản của cà phê “Thương mại công bằng” đối với nông hộ nhỏ?”. Buổi Seminar được điều hành bởi sự chủ trì của TS. Đỗ Trường Lâm và đã thu hút được sự quan tâm lắng nghe cũng như nhận được các ý kiến thảo luận sôi nổi của các thầy cô giảng viên trong Khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn.

Trên thế giới cũng như tại Việt nam, phát triển cà phê bền vững trở thành chủ đề thảo luận sôi động theo đó tính bền vững trong ngành cà phê bao gồm những điều kiện sản xuất, chế biến và thương mại cho tất cả các bên liên quan trong chuỗi cung ứng sao cho: “bền vững kinh tế cho nông dân”, “bảo tồn môi trường” và “trách nhiệm xã hội”. Cà phê là cây công nghiệp lâu năm, có nhiều triển vọng phát triển trong điều kiện tự nhiên của nước ta và là một trong mười mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam hiện nay. Cà phê được xem là một trong những cây trồng chiến lược trong quá trình phát triển nền nông nghiệp hóa ở Việt Nam, xóa đói giảm nghèo và làm giàu cho nông dân Tuy nhiên, sản xuất cà phê tại Việt Nam chưa bền vững. Toàn cầu hóa và sự phát triển về công nghệ, tự do hóa thương mại và giao thông vận tải đã dẫn đến sự gia tăng của chuỗi giá trị và mạng lưới sản phẩm toàn cầu. Các sáng kiến chứng nhận và dán nhãn này ngày càng được chú ý vì chúng có lợi ích thị trường và các cam kết nội địa hóa ưu tiên con người và sự phát triển. Fairtrade là sáng kiến quốc tế nhằm xây dựng và phát triển hệ thống thương mại toàn cầu dựa trên nguyên tắc bình đẳng trong sản xuất kinh doanh, tôn trọng môi trường bền vững. Do đó, TMCB là một lựa chọn cho các nhà sản xuất nhỏ, vì họ được hưởng giá tốt hơn, cơ chế đàm phán công bằng hơn trong chuỗi cung ứng thông qua tập thể và minh bạch. Tuy nhiên, khái niệm này tương đối mới và chưa được công nhận. Mục đích của nghiên cứu này là đánh giá lợi thế của sản xuất và thương mại cà phê theo phương thức TMCB đối với nông dân sản xuất quy mô nhỏ ở Việt Nam cũng như tìm ra những rào cản đối với nông dân sản xuất quy mô nhỏ ở Việt Nam

leftcenterrightdel
 

Ths Trần Hương Giang trình bày và các đại biểu tham dự Seminar

Cà phê là một trong những mặt hàng nông sản xuất khẩu có quy mô kim ngạch xuất khẩu lớn của Việt Nam. Việt Nam xếp thứ hai toàn cầu với sản lượng 29 triệu bao trong năm 2020. Ngoài ra, Việt Nam cũng là quốc gia có năng suất cà phê cao nhất thế giới với 2,4 tấn trên mỗi hecta, gần gấp đôi Brazil (1,4 tấn/hecta) và vượt xa các nước khác trong top 10 như Honduras (0,9 tấn/hecta), Colombia (0,9 tấn/hecta), Ethiopia (0,7 tấn/hecta) hay Indonesia (0,5 tấn/hecta). Cà phê của Việt Nam đã được xuất khẩu tới hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ. Kim ngạch xuất khẩu của cafe Việt Nam khoảng 4 tyt $Tuy nhiên, giá trị gia tăng của mặt hàng cà phê Việt Nam trong chuỗi giá trị cà phê toàn cầu hiện nay còn thấp. Các hoạt động chủ yếu tạo ra giá trị của cà phê Việt Nam là: Sản xuất (trồng trọt, thu hoạch) - Chế biến (chế biến ướt, chế biến khô) - Phân phối, tiêu thụ (xuất khẩu, thị trường nội địa). Giá trị gia tăng của mặt hàng cà phê Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu chủ yếu là ở khâu sản xuất cà phê nguyên liệu - là khâu có giá trị gia tăng thấp nhất. Vì vậy, mặc dù Việt Nam chiếm tới 20% thị phần xuất khẩu cà phê nhân toàn cầu nhưng chỉ chiếm khoảng trên 2% giá trị của ngành sản phẩm cà phê toàn cầu.

Bằng cách hỗ trợ nông dân sản xuất nhỏ tự tổ chức thành các tổ chức sản xuất nhỏ - chẳng hạn như hợp tác xã và hiệp hội, Fairtrade mang lại cho nông dân quy mô nhỏ rất nhiều lợi ích. Trong phần dưới đây, tác giả đã trình bày các lợi ích tại Việt Nam. Thứ nhất, HTX đã thành lập mạng lưới HTX cà phê Fairtrade với sự hỗ trợ của nhiều đối tác quốc tế và trong nước, doanh nghiệp nhằm nâng cao năng lực và chia sẻ kinh nghiệm hoạt động. Hợp tác xã Fairtrade được thành lập để thu hút người tiêu dùng cà phê do họ đang gặp nhiều khó khăn về tiếp thị sản phẩm và dự án cà phê Fairtrade có thể giúp cộng đồng cà phê phát triển thành một tập thể đoàn kết, nâng cao chất lượng hạt cà phê, xây dựng thương hiệu. Ngay khi đi vào hoạt động, HTX chú trọng thắt chặt mối liên kết giữa các hộ, hướng tới sản xuất cà phê bền vững theo chứng nhận Fairtrade, với cơ chế hoạt động mới. Các thành viên vẫn sở hữu đất đai của mình, góp vốn; được hỗ trợ chi phí sản xuất, tập huấn khoa học kỹ thuật ... Vì vậy, vườn cà phê của famer cho năng suất cao (tăng hơn 1 tấn / ha so với mô hình thông thường) và chất lượng. Thứ hai, khi nông dân tham gia vào HTX Fairtrade, điều an tâm nhất là nông dân không phải lo đầu ra. Như vậy, lợi nhuận hàng năm của nông dân tăng khoảng 25-30 triệu đồng / hộ so với những hộ không tham gia hợp tác xã. Ngoài ra, HTX sẽ trích 20 - 30% thu nhập của họ để hỗ trợ cộng đồng xung quanh.

Tuy nhiên, thực trạng chính của sản xuất cà phê Fairtrade ở Việt Nam là người sản xuất chỉ bán một phần sản xuất được chứng nhận, phần còn lại phải bán dưới dạng cà phê thông thường. Một số rào cản khiến nông dân khó gia nhập mạng lưới Fairtrade. Rào cản đầu tiên là yêu cầu chất lượng. Do tuân thủ nghiêm ngặt các tiêu chuẩn nên để được hưởng giá cao hơn thì chất lượng hạt cà phê phải cao tương ứng. Tập quán sản xuất truyền thống của các nhà sản xuất cà phê Việt Nam có ảnh hưởng lớn đến chất lượng cà phê. nên họ rất khó thay đổi tập quán nên rất mất thời gian và tiền bạc. Bên cạnh đó, khi cà phê rớt giá, hàng nghìn ha cà phê bị chặt bỏ để sản xuất các loại cây khác có giá trị kinh tế cao. Ngược lại, giá cà phê lên cao, nhiều hộ dân đua nhau tăng diện tích, bất chấp khuyến cáo của các nhà quản lý, chuyên gia. Rào cản thứ hai là chứng nhận. Tại Việt Nam, theo FLO, chi phí chứng nhận bao gồm phí đăng ký; phí thành viên năm đầu tiên và những năm tiếp theo; phí kiểm toán, phí kiểm tra lại theo quy định của TMCB, về. Người sản xuất chi tiền trong giai đoạn chuyển đổi và chi phí chứng nhận, nếu không có gì đảm bảo rằng người sản xuất bán sản phẩm với giá cao hơn, họ sẽ bị thiệt thòi. Thị trường của Fairtrade cũng là vấn đề chính. Nó đang tăng trưởng nhưng chậm và thị phần tương đối nhỏ, khoảng 5-7% tổng lượng cà phê xuất khẩu.

Sau phần trình bày của ThS. Trần Hương Giang, các thầy cô giảng viên đã thảo luận chia sẻ các vấn đề liên quan đến cà phê có chứng nhận và mở rộng ra nhiều loại nông sản khác, đóng góp nhiều ý kiến giúp nghiên cứu hoàn thiện hơn.

Trần Hương Giang, Nhóm NCM Liên kết Kinh tế và phát triển thị trường